1. Hình thái
- Lươn đồng có tên khoa học là Monopterus albus. Lươn có thân dài, phần trước tròn, phần sau dẹp bên và mỏng. Toàn thân không có vẩy. Ðường bên hoàn toàn, chạy dọc theo trục giữa thân từ sau đầu đến gốc vây đuôi.
- Màu sắc của lươn có thể thay đổi theo môi trường sống. Nhìn chung, lươn có màu sắc như sau:
- Lưng có màu nâu sậm, vàng nâu, bụng có màu vàng nhạt.
- Lươn có đầu hơi dẹp bên, miệng có thể mở rất rộng, xương hàm cứng và chắc. Vây ngực và vây bụng thoái hóa hoàn toàn. Vây lưng, vây hậu môn, vây đuôi nối liền với nhau và tia vây không rõ ràng.
2. Phân bố
Lươn là loài phân bố rộng, nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là khu vực nhiệt đới. Ở ĐBSCL, lươn sống phổ biến trong trong các ao, hồ, sông rạch, ruộng lúa nơi có nhiều mùn bã hữu cơ và sinh vật nhỏ làm thức ăn. Lươn có khả năng chịu đựng khô hạn bằng cách chui rúc vào trong đất ẩm.
3. Tính ăn
- Kết quả khảo sát cho thấy lươn có hàm khoẻ, miệng lớn, ruột ngắn, không cuộn khúc. Điều đó chứng tỏ lươn là loài cá ăn động vật.
- Khi còn nhỏ thức ăn của lươn là động vật phù du, khi trưởng thành thức ăn là động vật đáy như tôm cá con, ấu trùng côn trùng thuỷ sinh. Nhìn chung, thức ăn của lươn trưởng thành là động vật và đặc biệt thức ăn có mùi tanh vì vậy khi tôm, cá trong nước bị thương, bị bệnh, cơ thể tiết nhiều nhớt sẽ trở thành mồi của lươn. Tuy nhiên tính ăn còn thay đổi và tùy thuộc vào giai đoạn phát triển của cơ thể, cơ sở thức ăn trong môi trường nước.
- Lươn có tập tính hoạt động kiếm ăn về đêm, ban ngày ẩn nấp trong hang hoặc chỉ rình mồi ở cửa hang. Khi thiếu thức ăn, lươn có thể ăn lẫn nhau.
4. Ðặc điểm hô hấp
- Ở lươn, ngoài mang còn có cơ quan hô hấp phụ là da và khoang hầu. Da lươn thuộc da trơn, có nhiều nhớt và dưới da có rất nhiều mạch máu nhỏ nên rất thuận lợi cho việc trao đổi khí qua da. Thành khoang hầu của lươn mỏng có nhiều mạch máu giúp cho việc trao đổi khí xảy ra ở đây khi lươn đớp khí.
- Khi để lươn trên cạn, da khô, chúng sẽ chết sau 12 - 20 giờ, nhưng nếu giữ đủ độ ẩm cho da lươn sẽ chết sau 27 - 70 giờ. Nếu không được tiếp xúc trực tiếp với không khí lươn sẽ chết sau 4 - 6 giờ mặc dù oxy trong nước đầy đủ.
5. Ðặc điểm sinh trưởng
- Sinh trưởng của lươn phụ thuộc nhiều vào nhiều yếu tố. Nhưng nhìn chung tốc độ sinh trưởng của lươn chậm so với một số giống loài thuỷ sản khác. Ở môi trường tự nhiên sau một năm lươn có thể đạt trọng lượng 200 - 300 g/con.
- Nhiệt độ thích hợp nhất cho lươn sinh trưởng từ 25 - 28oC. Khi nhiệt độ thấp hơn 18oC lươn bỏ ăn và dưới 10oC lươn sẽ chui xuống bùn trú đông.
6. Ðặc điểm sinh sản
- Lươn thành thục khá sớm (1 tuổi), điều đặc biệt là lươn có sự chuyển giới tính. Theo Mai Ðình Yên (1978), lươn có kích cỡ nhỏ (dưới 25 cm) hoàn toàn là lươn cái, cỡ 25 - 54 cm có cả con đực, con cái và con lưỡng tính, cỡ lớn hơn (trên 54 cm) thì hoàn toàn là lươn đực. Tuy nhiên đặc điểm này lươn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long không rõ ràng.
- Một số nghiên cứu cho thấy, lươn ở ÐBSCL có kích cỡ từ 18 - 38 cm là lươn đực và trên 38 cm có cả lươn cái, lươn đực và lưỡng tính. Tùy vào kích cỡ của lươn, sức sinh sản có thể từ 100 – 1.500 trứng/con. Đường kính trứng có thể đến 4mm.
- Khi sinh sản, lươn làm tổ bằng cách đào hang ở cạnh bờ và nhả bọt lên miệng hang để bao bọc trứng. Bọt do lươn nhả ra vừa có tác dụng bảo vệ trứng vừa có tác dụng giữ trứng tập trung trong tổ. Vào mùa sinh sản, sau những trận mưa và lúc trời gần sáng là thời điểm lươn đẻ tập trung. Trước khi đẻ, lươn đực phun bọt vào trong tổ, sau đó lươn cái đẻ trứng và con đực cắp trứng vào tổ.
Nguồn: Đại học Cần Thơ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét